Truyện cổ Phật giáo: Ánh mắt từ bi


Buổi sớm mùa đông ấy, tiếng guốc của Sudas vang lên một âm thanh mòn mòn, ngái ngủ trên sườn đồi hẻo lánh. Với chiếc gàu tưới trong tay, Sudas rảo bước vừa hát thì thầm, tiến về phía dòng suối dưới chân đồi. Sudas mỉm cười khoan khoái, nghĩ đến những luống hoa đang chờ đợi những giòng nước mát sau một đêm đông dài.

Anh ta đến đây lập nghiệp từ bao giờ, không ai hay biết. Chỉ biết Sudas sống cô độc trên đỉnh đồi, và hoa của Sudas là thứ hoa tốt nhất vùng, có thể làm thỏa mãn những khách hàng đài cát nhất.

Đồi hoa của Sudas ở biệt lập, suốt năm không hề một du khách đặt chân. Và thành thị gặp Sudas mỗi tuần một bận, khi anh đem hoa bán để đổi lấy những nhu cầu cần thiết. Ngoài những hôm ấy ra, quanh năm thui thủi trên ngọn đồi vắng vẻ, Sudas sống một cái đời ở ngoài cuộc đời.

Ngày ngày chăm bón những luống hoa, sáng tưới nước, trưa che nắng, chiều bắt sâu, Sudas tự mãn với công việc ấy. Để hoa tốt, tốt để làm gì, để bán. Bán để làm gì, để mua lương thực, để làm gì nữa?… Rủi thay và may thay, Sudas chẳng bao giờ tự đặt những câu hỏi ấy. Đầu óc giản dị của anh ta chỉ chú tâm đến một việc: trồng hoa, Sudas sống không vui không buồn, không sở thích, không đam mê.

Hoa của anh là cứu cánh vừa là phương tiện. Những luống hoa anh đã chăm bón hằng ngày với tất cả trìu mến và say sưa, đến cuối tuần cũng chính anh ta sẽ cắt hoa bó thành bó để đem xuống thành thị làm vật đổi chác. Rồi một thế hệ hoa mới lại được nâng niu và sẽ cùng chung số phận như những luống hoa đã đi qua…

Sudas đứng dừng lại bên bờ suối. Mặt nước xao động, và những gợn song như những bàn tay mềm đang từ từ xóa những dấu chân Sudas in trên cát. Chưa bao giờ mặt nước ban mai lại xao động như hôm nay. Sudas khẽ rùng mình linh tính báo cho anh ta một việc gì khác thường sắp xảy đến.

Lập tức, Sudas vụt vội gàu nước xuống suối để lấy nước. Nước băng giá tung toé vào mặt, vào tay anh. Sudas không kịp cảm thấy giá buốt. Anh nóng lòng muốn lấy lại cái luống hoa và vội rảo bước lên đồi. Lá úa phủ đầy lối đi, và cây cỏ phô bày bộ xương thiểu não của mùa đông.

Đêm qua hẳn gió thổi nhiều, và biết đâu lại không có bão táp. Bão, Sudas giật mình bước chân lên đồi hoa. Nhưng kìa! Đã đến chân đồi, mà sao nhưng giò hoa thắm sắc vẫn mất hút tăm dạng? Sudas hoảng hốt bước lên thì…Chao ôi! Cả một vùng hoa đã bẹp nát dưới bùn lầy, không còn lấy một giò hoa tươi tốt.

Đêm qua đã có bão thật rồi! Cả một sự nghiệp đổ nát, một công trình tan vỡ! Thiên nhiên đã  phá mất của ta tất cả lẽ sống còn. Thẫn thờ, thiểu não, Sudas bước những bước chếnh choáng xuống sườn đồi thoai thoải.

Anh ngỡ mình đang ở trong một cơn mơ không lành. Có lẽ nào! Những luống hoa tươi vừa mới hôm qua đầy hứa hẹn một buổi chợ đắt hàng, thế mà chỉ qua một đêm…Sudas quay lui và nhìn lại một lần cuối để biết chắc rằng mình không mơ: Đây, ở nơi đã vươn lên nhưng chồi hoa mập mạnh, bây giờ là một khung trời mờ nhạt,  lạnh lùng…

Sudas xuống đồi đi lang thang, lòng buồn hơn cả trời đông. Men theo dòng suối, anh đi mãi không mục đích và mặc cho ngọn gió buốt làm cho tay và mặt anh tê cóng, anh đã đến biên giới của miền hoang vu.

Qua một cổng thành, anh sẽ bước vào một thế giới của đô thị náo nhiệt. Sudas dừng chân, hoang mang. Nhưng lạ kỳ chưa, dưới chân thành, trong hồ sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen đang vươn lên, đơn chiếc.

Đóa hoa trắng muốt và to lớn một cách dị thường. Anh chưa hề thấy một bông sen to như thế cả đến trong những mùa sen nở. Thế mà giờ đây, đang giữa mùa đông, đóa hoa vương giả ấy lại xuất hiện trong một hồ sen công cộng! Sudas mừng rỡ lội xuống hồ bẻ.

Anh cầm chiếc hoa sen đi ra cổng thành, định bán để mua một ít đồ ăn lót dạ. Nhưng bỗng Sudas chóa mắt khi thấy bao nhiêu người đều đổ xô đến anh ta và tranh giành nhau để mua đóa hoa. “Ta phải bán nó với một giá thật đắt” Sudas nhủ thầm trong khi khách mua mỗi lúc một đông và giá trả đang lên như diều gặp gió. Sudas làm cao từ chối tất cả các khách hàng:

“Không bán cho ai hết, tôi sẽ đem bán cho nhà vua”.

Khách mua lảng xa, bằng lòng nhường để bán cho nhà vua vì họ đều biết rằng vua cũng sẽ mua đóa hoa quý ấy để cúng dường đức Phật đang thuyết phát trong vùng.

Sudas đi đến kinh thành, nhưng một hành khách sang trọng dừng bước, anh ta đòi mua cho kỳ được đóa hoa với một giá chưa từng có: hai trăm quan  tiền vàng. Sudas gần muốn điên lên vì sung sướng. Hai trăm quan!

Cả một đồi hoa tươi tốt của anh ta cũng chưa bao giờ bán được với giá ấy. Và vì lòng tham không hề lùi bước, anh ta quyết đem bán cho nhà vua thật. Nhưng Sudas không phải nhọc công đi vào kinh thành, vì kìa, đức vua đã ngự đến. Vẻ giản dị của ngài vẫn không làm giảm cốt cách cao sang. Ngài dừng lại, ôn tồn bảo hành khách:

“Này du khách, ngươi có thể nhường cho ta mua đóa hoa này chăng? Để ta đem đến dâng cúng đức Thế Tôn.”

Cũng như những người mua trước, du khách bằng lòng và bỏ tiền vào túi rồi rảo bước. Nhà vua nói với Sudas:

“Ngươi sẽ bán đóa hoa cho ta với giá gấp đôi giá hành khách kia đã trả, được chứ?”

Sudas ngẫm nghĩ: Đức Thế Tôn là ai? Nhưng chắc hẳn phải là cao sang và giàu có hơn nhà vua này. Thế nên mọi người, cả đến nhà vua, mới hăm hở mua hoa để dâng ngài như thế. Tại sao ta lại không bán cho chính Đức Thế Tôn ấy? Ta sẽ giàu to chuyến này!

Và Sudas từ chối nhà vua:

“Tâu ngài, tôi sẽ đem hoa này bán cho Đức Thế Tôn. Xin ngài vui lòng chỉ dẫn tôi, ông ấy hiện ở đâu.”

Nhà vua vui lòng chỉ lối đi. Sudas rảo bước về tịnh xá, nơi đức Phật đang tĩnh tọa để đợi giờ thuyết pháp cho Tăng sĩ.

Sudas đã đến cõi thanh bình. Đây là vườn Cấp Cô Độc, người đã cúng Phật khoảnh đất để làm nơi thuyết pháp. Tuy là giữa mùa đông mà lá cây xanh rờn, khắp không trung bàng bạc một mùi hương thanh tịnh. Sudas bỗng lạnh người…

Dưới gốc cây, đức Phật đang ngồi, uy nghiêm, chói lọi. Sudas đứng dừng và toan lùi bước. Nhưng đức Thế Tôn đã nhìn thấy Sudas…ánh mắt từ bi! Ôi cả một đại dương tình thương chứa đầy đôi mắt ấy!

Sudas từ từ tiến đến đức Phật, bao nhiêu tham lam hèn hạ đã tan biến đâu mất. Sudas quỳ xuống, một nụ cười hiền dịu nhìn Sudas. Ngài đã biết tận can phế của đứa con yêu và dịu dàng khẽ hỏi:

“Con muốn gì nữa?” Sudas cúi đầu ấp úng:

“Bạch Ngài, con muốn hôn chân Ngài”.

Ðược tin trước, vua Tịnh Phạn cảm mừng vô hạn, rồi tất cả Hoàng gia cũng như toàn dân Ấn Ðộ đều sửa soạn rước Phật trong niềm hân hoan đặc biệt.

Từ khi vượt thành xuất gia, cho đến ngày thành đạo, thấm thoát hơn hai mươi năm, hôm nay Ngài trở về, với một tấm cà sa, một bình bát đất, Ðức Phật khoan thai để chân lên đất nước thân yêu.

Ðức độ từ bi của Phật cảm thông cả ngọn cỏ ngàn cây, nên Ngài đặt chân đến đâu thì hoa lá tươi thêm cây cối xanh tốt. Còn từng rừng người, từng loạt sóng người đã nấc lên vì cảm động trong lúc người đi ngang qua.

Thế là chiều hôm đó, vua Tịnh Phạn thỉnh Phật thuyết pháp tại Hoàng cung. Ngài ngự trên pháp tọa cao, dung nghi đĩnh đạc, hào quang của Phật chiếu tỏa một màu sáng dịu.

Khi ấy vua Tịnh Phạn liền đứng dậy đến trước Phật đảnh lễ rồi bạch:

“Kính cẩn bạch đấng Vô Thượng Sư! Tôi nay già cả xin Ngài chỉ cho một phương pháp tu hành để được giải thoát các khổ lão, bệnh, tử.”

Ðức Phật bùi ngùi khi thấy Phụ Hoàng đầu bạc da nhăn, chân bước run run. Than ôi, tất cả khí tượng hiên ngang của vị Ðế vương oanh liệt lúc thiếu thời, nay còn đâu nữa. Thế Tôn thương xót, Ngài đứng dậy đỡ Phụ hoàng ngồi xuống và ôn tồn bảo:

“Kính tâu Phụ hoàng, từ khi Tất Ðạt Ða xuất gia cho tới ngày thành đạo, trên đường truyền giáo Pháp đệ A Nan thường bị ngoại đạo phỉ báng: Thầy ngươi bất hiếu, bạc tình, chúng ta không phục”.

“Kính tâu Phụ hoàng, ngoại đạo vô tri chỉ thấy cái hiếu tầm thường cạn cợt, không biết Như Lai quyết đi tìm một món quà vô giá để dâng Phụ hoàng và ban khắp chúng sanh, mà Da Du cũng có một phần trong đó. Món quà vô giá chính là câu Phụ hoàng hỏi đấy.”

“Kính tâu Phụ hoàng! Tất cả các pháp đều vô thường, công danh như bọt, tình ái như mây, tuổi trẻ qua mau như làn điện chớp, thế mà chúng sanh chỉ bám víu theo các pháp vô thường, mà quên cái thường còn của mình là Phật tánh”.

“Tâu Phụ hoàng, chúng sanh đều có Phật tánh, nên ai cũng có thể phát triển khả năng thành Phật cả. Nhưng những phương pháp để phát triển khả năng thành Phật có nhiều lối, song chỉ có Pháp môn niệm Phật là thuận tiện và dễ dàng hơn hết.”

“Như Lai khi thành Chánh giác đã dùng Phật nhãn xem khắp thế giới trong mười phương, thì chỉ có thế giới “Cực Lạc” là an vui hơn cả. Ðấng Chánh biến tri ở nước Cực Lạc hiệu là A Di Ðà từ kiếp xa xưa, trong lúc tu nhân Ngài đả phát 48 lời nguyện, trong ấy có lời nguyện: Nếu chúng sanh trong tất cả mười phương, người nào phát tâm tin tưởng, phát chí tâm niệm danh hiệu ta, người ấy khi lâm chung chắc chắn được vãng sanh, nếu không như nguyện ta thề không thành Chánh giác”.

“Tâu Phụ hoàng! Cực Lạc là một thế giới an vui, chúng sanh về bên ấy chẳng những không còn bị khổ: già, bệnh, chết, oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc… mà cũng không bao giờ thấy khổ, nghe khổ. Cõi nước thanh tịnh đầy đủ trợ duyên để chúng sanh tu hành chóng được thành tựu đạo quả.”

“Kính tâu Phụ hoàng! Thập phương Như Lai tu hạnh thành Phật, nói lời đúng đắn lợi ích chúng sanh. Vậy Phụ hoàng và tất cả Thích chủng nên tin tưởng, thật hành Pháp môn niệm Phật, thì chắc chắn sẽ được thoát các khổ: sanh, lão, bệnh, tử…”

Khi vua Tịnh Phạn, Di mẫu và Da Du Ðà La cùng tất cả Thích chủng được nghe pháp âm của Phật đều phát tín tâm mạnh mẽ, liền chứng “Vô sanh pháp nhẫn”.

Thế Tôn mỉm cười thuyết bài kệ:

“Thích chủng có trí tuệ, nghe pháp của Như Lai phát tâm chuyên niệm Phật, người ấy khi mạng chung, quyết sanh về Cực Lạc, được thấy Phật A Di Ðà, Quan Âm cùng Thế Chí, chắc chắn thành Bồ Ðề”.